Công dụng của cây Mỏ quạ trong các bài thuốc chữa bệnh

1 Star2 Stars3 Stars4 Stars5 Stars (1 votes, average: 5,00 out of 5)
Loading...

Cây mỏ quạ là loại cây thường mọc tự nhiên ở các vùng đồi núi được biết đến như một loại thảo dược trị bệnh đặc biệt được các bác sĩ y  học cổ truyền tại Trường Cao đẳng Y dược TPHCM sử dụng trong nhiều vị thuốc chữa bệnh vô cùng hiệu quả.

Cây mỏ quạ với nhiều công dụng chữa bệnh vô cùng thần kỳ

Cây mỏ quạ với nhiều công dụng chữa bệnh vô cùng thần kỳ

Mỏ quạ và một số thông tin cần biết

Mỏ quạ hay còn được gọi với một số tên khác như Hoàng lồ, vàng lồ…là loại cây thuộc họ Dâu tằm – Moraceae, có tên khoa học Maclura cochinchinensis (Lour.) Corner (Vanieria cochinchinenssis Lour.). Cây bụi, sống tựa, có cành dài mềm, thân có nhựa mủ trắng như sữa. Vỏ thân màu xám có nhiều lỗ bì màu trắng. Thân và cành có nhiều gai cong quặp xuống trông như mỏ con quạ. Lá mọc so le, hình trứng thuôn, dài 3-8cm, rộng 2cm -3,5 cm, gốc nhọn, nhẵn bóng ở mặt trên; cuống lá mảnh, có lông. Mỏ quạ thường ra hoa vào tháng 4 đến tháng 5 hằng năm, cụm hoa hình đầu, đơn tính, khác gốc, mọc ở nách lá, màu vàng nhạt. Quả nạc hình cầu mềm hơi cụt ở đầu, khi chín màu vàng; hạt nhỏ, có quả tháng 10-12.

Theo Đông y, Cây mỏ quạ có tính hơi mát, vị hơi đắng, có tác dụng hoạt huyết khư phong, thư cân hoạt lạc. Công dụng, chỉ định và phối hợp: Quả dùng ăn được hoặc để nấu rượu. Rễ được dùng trị đòn ngã , phong thấp đau nhức lưng gối, lao phổi, ho ra máu hoặc khạc ra đờm lẫn máu, bế kinh, hoàng đản và ung sang thũng độc. Liều dùng: 12-40 g dạng thuốc sắc. Cũng thường phối hợp với các vị thuốc khác. Lá có thể dùng cho tằm ăn và dùng chữa các vết thương phần mềm.

Thành phần hóa học có trong cây mỏ quả

Theo nguyên cứu của các giảng viên khoa Cao đẳng Xét nghiệm TPHCM tại Trường Cao đẳng Y dược TPHCM cho biết trong rễ và lá của cây mỏ quả chứa flavonoid, tanin pyrocatechic và acid hữu cơ.

Bài thuốc chữa bệnh áp dụng với cây mỏ quạ

Công dụng của cây Mỏ quạ trong các bài thuốc chữa bệnh

Công dụng của cây Mỏ quạ trong các bài thuốc chữa bệnh

  • Trị vết thương phần mềm (theo kinh nghiệm của cụ lang Long ở Hải Hưng): Lá Mỏ quạ tươi, lấy về rửa sạch bỏ cuống, giã nhỏ đắp vào vết thương. Mỗi ngày dùng lá Trầu không nấu nước, pha thêm một cục phèn 8 g hoà tan rửa vết thương, rồi đắp thuốc mới, độ 3-5 ngày là khỏi. Nếu vết thương xuyên thủng thì đắp hai bên dính lại ngày làm một lần. Nếu vết thương thịt chậm đầy, lâu kéo miệng thì dùng lá Mỏ quạ tươi với lá Bòng bong, hai vị bằng nhau giã đắp và thay thuốc sau khi rửa vết thương mỗi ngày một lần như trên. Sau 3-4 ngày thì giã thêm lá Hàn the, ba thứ bằng nhau giã đắp và thay thuốc 3 ngày một lần để vết thương mau lên da non và gom miệng. Sau 2-3 lần băng với ba vị thuốc trên, dùng thuốc bột chế với phấn cây Cau (sao khô) 20g, phấn cây Chè (sao khô) 16g, Bồ hóng 8g, Phèn phi 4g tán rắc vết thương rồi để yên cho đóng vẩy và róc thì thôi.
  • Trị kinh giản, lên cơn hằng ngày hay 3-4 ngày phát một lần: Dùng Mỏ quạ, hạt Cau, Thảo quả, mỗi vị 20 g sắc uống (theo Hoạt nhân toát yếu).
  • Trị lao phổi, ho ra máu hoặc khạc ra đờm lẫn máu: Mỏ quạ 40 g, Dây Rung rúc 30 g, Bách bộ và Hoàng liên ô rô, mỗi vị 20g sắc uống.
  • Trị phụ nữ bế kinh: Lấy 30g rễ mỏ quạ gai rửa sạch, đổ 500 ml nước sắc còn 200ml, chia 2 lần uống trong ngày, dùng liền 10 ngày trước chu kỳ kinh.
  • Chữa ho do lao phổi: Rễ mỏ quạ gai 40g, rung rúc 30g, bách bộ, hoàng liên ô rô, mỗi vị 20g. Tất cả rửa sạch cho vào ấm đổ 700ml nước, sắc còn 350ml, chia 3 lần uống trong ngày, uống lúc còn ấm. 15 ngày 1 liệu trình.
  • Hỗ trợ điều trị phong thấp: Mỏ quạ gai 40 g, cành dâu, quế chi, thiên niên kiện mỗi vị 20 g. Cho tất cả các vị vào ấm đổ 550ml nước sắc nhỏ lửa còn 250 ml chia 2 lần uống trong ngày. 10 ngày một liệu trình.

Theo tìm hiểu của các giảng viên Cao đẳng Dược TPHCM tại Trường Cao đẳng Y dược TP HCM cho biết ở Thái Lan, người ta thường dùng gỗ cây mỏ quạ trị sốt mạn tính làm thuốc bổ và trị ỉa chảy.